Kết cục Trận_Vành_đai_Pusan

Trong vòng có vài tháng trong năm 1950, Hoa Kỳ đã thực hiện một bước nhảy lớn từ chỗ không đặt sẵn một thế chiến lược quan trọng nào tại bán đảo Triều Tiên sang thế chủ động tham gia một cuộc xung đột vũ trang lớn. Quân đội hiện dịch của Hoa Kỳ gồm 591.000 đang tập trung lực lượng tại Tây Âu để đối đầu với Liên Xô và nhiệm vụ chiếm đóng tại châu ÂuViễn Đông. Bốn sư đoàn dưới Bộ tham mưu Viễn Đông của MacArthur tại Nhật Bản đang thực hiện các nhiệm vụ chính yếu là chiếm đóng, và mức độ thực sự sẵn sàng cho chiến đấu qui ước thậm chí còn thấp hơn các đáng giá thống kê về họ. Mỗi sư đoàn của MacArthur là khoảng 7.000 người, thấp hơn nhiều quân số cho phép là 18.900, và không có sư đoàn nào nhận được bất cứ trang thiết bị mới nào từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. MacArthur trước đây không ủng hộ hoàn việc thành lập Quân đội Đại Hàn Dân Quốc, và năm 1948 ông chỉ đề nghị mở rộng lực lượng cảnh sát của Đại Hàn Dân Quốc. Khi Bộ trưởng Quốc phòng của Đại Hàn Dân quốc xin viện trợ xe tăng M26 Pershing từ Mỹ vào năm 1949, Nhóm Cố vấn Quân sự Hàn Quốc (Korean Military Advisor Group) hay KMAG cho rằng đường giao thông và địa thế của Hàn Quốc không cho phép hoạt động của xe tăng, đây là sự suy đoán rõ ràng không chính xác khả năng hoạt động của các xe tăng T34 của Liên Xô tại Hàn Quốc trong những giai đoạn đầu của cuộc chiến. Khi Quân đội Hoa Kỳ tại bán đảo Triều Tiên rút quân khỏi Hàn Quốc năm 1949, họ đã chuyển giao cho Quân đội Đại Hàn Dân quốc các vũ khí và trang bị cá nhân đủ cho khoảng 50.000 binh sĩ nhưng các vũ khí nhỏ này không thể đẩy lui các cuộc tấn công bằng cơ giới của Quân đội Nhân dân Triều Tiên.

Hoa Kỳ không tiên đoán được cuộc xâm lăng của Quân đội Nhân dân Triều Tiên và KMAG đã sai lầm khi kết luận rằng Quân đội Đại Hàn Dân quốc có thể chống đỡ được một cuộc xâm lăng nếu nó xảy ra. Tuy nhiên khi Hàn Quốc bị tấn công, Hoa Kỳ đã quyết định can thiệp vì Hàn Quốc. Tổng thống Truman đã ra lệnh hỗ trợ bằng không hải lực trong những thời gian đầu tiên của cuộc xung đột và sau đó tiến hành gởi binh sĩ bộ binh đến tham chiến. Việc bại trận của Lực lượng Đặc nhiệm Smith cho thấy tầm quan trọng của huấn luyện đầy đủ sau thời chiến phải đi đối với hỗ trợ cơ giới và không quân trong các chiến dịch chiến đấu.

MacArthur đã đánh giá thấp tài năng và quyết tâm của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên nhưng đã nhìn nhận ra sai lầm của mình khi ông kết luận rằng phải có hơn 4 sư đoàn Hoa Kỳ cần đến để đánh bại đối phương. Các nỗ lực phối hợp của Quân đội Hoa Kỳ và Hàn Quốc dưới quyền tư lệnh của Tướng Walker cộng với ưu thế về hải quân và không đã làm chậm cuộc tiến quân về miền nam của quân Triều Tiên và kết thúc cuộc tiến quân đó trong một cuộc phòng thủ Vành đai Pusan khó khăn nhưng thành công. Chiến sư có cường độ lớn như được phản ảnh qua con số thương vong của Mỹ đến giữa tháng 9 năm 1950 là 4.599 tử trận, 12.058 bị thương, 401 được báo cáo là bị bắt, và 2.107 được báo cáo mất tích. Tuy nhiên, những tuần lễ rút lui thê thảm và chết chóc chẳng bao lâu xoay chuyển tình thế: Sự giải tỏa bao vây Vành đai Pusan cùng với cuộc đổ bộ lên Inchon của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến và Sư đoàn 7 Bộ binh trong tuần thứ ba của tháng 9.[2]

Liên quan